
Nguồn gốc của bánh cốm – bắt nguồn truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh
Sơn Tinh Thủy Tinh là một câu chuyện truyền thuyết kể về cuộc chiến giữa Thần Núi Sơn Tinh và Thần Nước Thủy Tinh để tranh cưới nàng công chúa Mỵ Nương. Thủy Tinh cứ cho nước dâng lên đến đâu thì Sơn Tinh lại cho núi dâng cao lên đến đó, cứ như vậy giằng co ngang tài ngang sức. Cuộc chiến long trời lở đất ấy diễn ra nhiều tháng trời, cuối cùng thì phần thắng đã thuộc về Sơn Tinh.
Khi nước rút, Thần Núi Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương xinh đẹp trong lúc đi vi hành trần gian để giúp dân khắc phục hậu quả của trận lũ ngàn năm có một của Thủy Tinh đã vô tình nhìn thấy một giống lúa non thơm như dòng sữa mẹ ngọt ngào, cho đàn con thơ bú.
Càng sống chung với nhau thì tình yêu giữa Sơn Tinh và Mỵ Nương ngày càng trở nên bền chặt, son sắt, quấn quýt như cau trầu, long phụng. Mong ước thế gian này ai ai cũng có được tình yêu vĩnh cửu như của hai vợ chồng ấy, họ đã cùng nhau tạo ra bánh cốm – một loại bánh được làm từ giống lúa mới năm nào sau cơn lũ tàn bạo của Thủy Tinh.
Sở dĩ họ chọn giống lúa đó để làm bánh cốm là vì họ nhận thấy một điều – bao nhiêu cây đại thụ cao lớn khổng lồ đều đã bị quật ngã ấy vậy mà một thân cây bé nhỏ ấy lại có thể sống sót và chống chọi với thiên tai, sức sống của chúng thực sự rất đáng ngưỡng mộ.
Chưa hết, vỏ bánh khi làm ra cực kỳ dẻo, kết dính với nhau, ấn ngón tay vào cảm thấy mềm mại, giống như lời nhắn gửi các đôi uyên ương dặn lòng chung thủy dù có khó khăn đến đâu cũng sẽ chẳng rời xa nhau.
Lớp bên ngoài của bánh cốm có màu xanh tượng trưng cho cỏ cây bốn mùa tươi tốt, muôn loài an vui, lấy đỗ xanh làm nhân bánh khi nấu lên xay nhuyễn sẽ chuyển sang màu vàng tượng trưng cho ánh mặt trời tỏa chiếu soi sáng khắp thế gian. Đây cũng là biểu tượng mang ý nghĩa của trái tim son sát, tôn vinh vẻ đẹp của tình yêu cao quý.
Bánh cốm có vị ngọt bùi, được nhân dân vô cùng yêu thích, trước hết họ để ăn, sau dần dần hình thành tập quán đưa bánh cốm vào lễ cưới hỏi với mong muốn hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với vợ chồng đôi lứa giống như Sơn Tinh và Mỵ Nương.
Tại sao bánh cốm lại trở thành đặc sản Hà Nội?
Sơn Tinh vốn là vị thần núi Tản Viên (là tên gọi khác của núi Ba Vì, Hà Nội), cũng vì thế mà những chiếc bánh cốm đầu tiên được ra đời tại vùng đất của chàng. Người Hà Nội vốn chuộng lễ nghi, phép tắc trong ma chay, cưới hỏi. Ngoài ra, từ xưa đến nay, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này đã sinh ra rất nhiều bậc kỳ tài về ẩm thực, họ sẽ không khó để lưu truyền, chế biến món bánh cốm trở nên ngọt hơn, lành hơn, dẻo thơm ấm áp không chỉ se duyên hồng mà còn là món đặc sản của Hà Thành từ nghìn đời nay, đặc biệt là mỗi khi mùa thu cốm xanh đưa hương theo gió bay về.
Tại Hà Nội, bánh cốm nổi tiếng nhất là ở con phố Hàng Than, từ năm 1865, cụ tổ của dòng họ Nguyễn Duy đã làm ra chiếc bánh cốm đầu tiên ở đây. Cái tên “Nguyên Ninh” có nghĩa là mang trọn gốc làng Yên Ninh. Ban đầu, bánh cốm được bán ở chợ Đồng Xuân, sau đó nổi tiếng khắp thủ đô bởi hương vị thơm ngon, dễ ăn, thấm đượm chất thu vốn có của Hà Thành. Hơn 150 năm trôi qua, bánh cốm Nguyên Ninh vẫn giữ nguyên được hương vị nhờ có bí quyết riêng được truyền dạy cho con cháu.
Bánh cốm được đưa vào sính lễ khi nào?
Không biết từ khi nào bánh cốm đã trở thành thứ không thể thiếu trong mâm sính lễ ngày cưới.
Theo nhiều bậc cao niên ở Hà Nội, bánh cốm là một món có mặt trong lễ ăn hỏi của người Hà Nội từ những ngày xa xưa. Không chỉ bởi cái tinh tế, đặc biệt của mùa thu thâu nhiếp trong nó, mà còn vì cái nhẽ “độc quyền” mà chẳng đâu bắt chước được.
Thời gian chảy trôi, những vốn cổ lệ xưa thời vàng son Hà Nội giờ đã phai mờ ít nhiều. Bây giờ, người ta thêm vào sính lễ ăn hỏi đủ loại, nào rượu ngoại, nước ngọt có ga, thuốc lá, kẹo bánh, hoa quả, bánh trung thu, xôi gấc… Cảm giác như những màu sắc truyền thống lặn đi đâu mất. Nhiều người già khó tính còn bảo, cái tráp ăn hỏi bây giờ, cũng gọi là có điều kiện, rườm rà, nhưng không còn đúng kiểu cổ truyền nữa, vừa lai căng lại vừa phô trương. Nếp cổ dần mất đi, thay vào những cái mới không thuần khiết…
Nhưng dù mới mẻ đến đâu, những nét duyên truyền thống như bánh cốm vẫn còn ở lại, vẫn bền bỉ xuất hiện trong mâm sính lễ của người Hà Nội.
Ý nghĩa của bánh cốm trong mâm sính lễ
Bánh cốm cưới hay được gọi là bánh cốm xanh. Đây là một trong hai loại bánh (cùng với bánh phu thê) không thể thiếu trong sính lễ của các lễ ăn hỏi, đặc biệt là dân Hà thành.
Bánh cốm có hình vuông, tượng trưng cho đất, tức là cực âm. Còn bánh phu thê hình tròn là hình bầu trời, tượng trưng cho cực dương. Ngày cưới có âm, có dương sẽ tạo nên sự thịnh vượng, ấm no và hạnh phúc cho cô dâu chú rể sau này. Bởi vậy, hai món truyền thống, bánh cốm và bánh phu thê vẫn luôn đi cùng nhau, bên cạnh những thứ bánh cưới hiện đại và đắt tiền ngày nay.
Bánh cốm có vị dẻo thơm của cốm non, vị ngọt của đường trộn và vị mát của dừa tươi. Đặc biệt, bánh cốm thơm hương hoa bưởi. Khi ăn bánh thường kèm với nước chè mạn. Tất cả tạo nên một đặc trưng riêng mà chỉ có những chốn quen thuộc, “đất mẹ” của cốm mới làm được. Hà Nội nổi tiếng với cốm Làng Vòng, cốm Mễ Trì và đặc biệt là bánh cốm Hàng Than.
Các nghệ nhân làm bánh cốm trên phố Hàng Than cho rằng, bánh cốm làm ra để phục vụ cưới hỏi, nên các khâu làm bánh phải rất cẩn thận. Cẩn thận để tạo nên hương vị đặc biệt của bánh, cũng cẩn thận để đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hà Nội có rất nhiều thức được làm từ cốm, mà tất cả đều ngọt bùi và rất quyến rũ bởi mùi hương đặc biệt của nếp non, nào là xôi cốm, chè cốm… Và chiếc bánh cốm không chỉ đem đến không khí đặc trưng mùa thu Hà Nội mà còn tạo nên vẻ mặn mà của ngày cưới.